Ấm Samovar Nga là một vật dụng truyền thống của Nga. Đây là dụng cụ để đun nước sôi pha trà. Ban đầu nước trong ấm được đun sôi nhờ hệ thống ống đốt chứa than củi hồng đặt trong lòng ấm, về sau mới có các loại samovar đun bằng dầu hỏa và bằng điện.
Ở Trung Quốc từ lâu cũng có một vật dụng tương tự, tuy nhiên nó không dược dùng để đun trà. Do vậy ấm samovar (từ “samo-var” tiếng Nga có nghĩa là “tự đun/ tự nấu”) được coi là sản phẩm độc quyền của nước Nga.
Những chiếc ấm Samovar đầu tiên xuất hiện vào năm 1778 tại thành phố Tula là nơi sản xuất vũ khí nổi tiếng của Nga. Chúng được sản xuất tại xưởng của anh em nhà Lisitsưn xuất thân từ một gia đình thợ vũ khí như rất nhiều gia đình khác ở Tula. Cho tới năm 1803 trong xưởng sản xuất samovar nhà Lisitsưn đã có 26 người, gồm 4 thị dân lo việc kinh doanh, 7 người thợ vốn là thợ vũ khí đảm nhiệm khâu sản xuất, 2 xà ích và 13 nông dân phụ việc. Vốn của xưởng là 3 nghìn rúp, trong khi thu nhập lên tới 1500 rúp là một mức không nhỏ lúc bấy giờ. Xưởng sản xuất samovar nhà Lisitsưn ở Tula nổi tiếng với những mẫu mã samovar độc đáo: hình bình hoa, hình trống, hình quả trứng, đúc và khảm hoa văn, vòi hình cá heo, tay cầm hình móc trang trí hoa văn phong phú và bắt mắt…
Từ cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19 các xưởng sản xuất samovar ở Tula đã phát triển thành nhà máy, mỗi nhà máy có công suất từ vài trăm đến vài nghìn ấm samovar mỗi năm. Tới năm 1850 chỉ riêng tại Tula đã có 28 nhà máy sản xuất samovar, mỗi năm xuất xưởng tổng cộng trên 120 nghìn ấm và nhiều đồ dùng bằng đồng khác nữa. Từ đó mới có câu tục ngữ: “Người ta không mang theo ấm samovar nhà mình khi tới Tula” («Со своим самоваром в Тулу не ездят») với lời khuyên không nên “chở củi về rừng”.
Vào cuối thé kỷ 19 đầu thế kỷ 20 xuất hiện loại samovar đun bằng dầu hỏa, cũng như được cải tiến hệ thống thông gió để đun sôi nước nhanh hơn.
Năm 1908 kỹ sư Parichko đã phát kiến ra dạng samovar có thể tháo rời ống đốt nóng, giúp loại ấm này an toàn hơn, giữ nhiệt lâu hơn và dễ cọ rửa. Loại ấm Parichko là sản phẩm được nhà máy của hai anh em Shakhdat và K ở Tula đăng ký bản quyền và rất được ưa chuộng trên thị trường Nga và châu Âu.
Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917 nghề sản xuất samovar có chững lại, song tới năm 1919 lại được phục hồi. Nhà nước Nga xô viết thành lập nhà máy quốc doanh tại Tula và các vùng khác để sản xuất samovar. Nổi tếng nhất là nhà máy sản xuất đồ đồng tại thành phố Kolchughino thuộc tỉnh Vladimir gần Moskva.
Cho dù hình dạng thế nào, ấm samovar tiêu chuẩn của Nga vẫn có những bộ phận chính như bầu ấm, ống chứa nhiên liệu bên trong có tán đinh để treo than hoặc quả thông khô làm chất đốt, phễu loe để cung cấp ôxy giúp than cháy đượm, vòi ấm, nắp vặn vòi, nắp ấm, van thông khí trên nắp, kiềng để đặt ấm pha trà đồng thời để tạo dòng khí đối lưu khi đậy nắp ấm, mũ chụp ống nhiên liệu, tay cầm, đáy, đế ấm. Ấm samovar của Nga dược làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, chủ yếu là đồng, quý hơn thì bằng bạc, thông thường bằng kim loại, đúc theo nhiều hình dạng phong phú, có khảm hoa văn hoặc tranh sơn mài Nga ngoài thành ấm. Mỗic chiếc ấm samovar có thể coi là một tác phẩm nghệ thuật, phản ảnh truyền thống văn hóa và tâm hồn Nga.
Ấm samovar là vật dụng không thể thiếu trong nghi thức uống trà của người Nga. Nó tượng trưng cho sự đầm ấm bình yên của mỗi gia đình, cho lòng nhân hậu và hiếu khách của người Nga.